Giới thiệu
Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế
Chức năng nhiệm vụ
Cơ cấu tổ chức
Trưng bày Triển lãm
Điện Long An
Cung An Định
Trường lang, Tử Cấm thành
Hiển Lâm Các-Thế Miếu
Vườn Thiệu Phương
Khu Cổ vật Chàm
Lăng vua triều Nguyễn
Sưu tập
Đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn
Pháp lam thời Nguyễn
Ấn phẩm
Tài trợ
Trung tâm BTDT Cố đô Huế
Bảo vật Quốc gia
Sưu tập Vạc đồng thời chúa Nguyễn
Cửu Vị Thần Công thời Nguyễn
Cửu đỉnh thời Nguyễn
Đại Hồng Chung chùa Thiên Mụ
Ngai vua triều Nguyễn
Áo Tế Giao triều Nguyễn
Bia Khiêm Cung Ký - Khiêm Lăng (lăng hoàng đế Tự Đức)
Bia “Ngự kiến Thiên Mụ Tự” của chúa Nguyễn Phúc Chu
Video
Giới thiệu
Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế
Chức năng nhiệm vụ
Cơ cấu tổ chức
Trưng bày Triển lãm
Điện Long An
Cung An Định
Trường lang, Tử Cấm thành
Hiển Lâm Các-Thế Miếu
Vườn Thiệu Phương
Khu Cổ vật Chàm
Lăng vua triều Nguyễn
Sưu tập
Đồ sứ ký kiểu thời Nguyễn
Pháp lam thời Nguyễn
Ấn phẩm
Tài trợ
Trung tâm BTDT Cố đô Huế
Bảo vật Quốc gia
Sưu tập Vạc đồng thời chúa Nguyễn
Cửu Vị Thần Công thời Nguyễn
Cửu đỉnh thời Nguyễn
Đại Hồng Chung chùa Thiên Mụ
Ngai vua triều Nguyễn
Áo Tế Giao triều Nguyễn
Bia Khiêm Cung Ký - Khiêm Lăng (lăng hoàng đế Tự Đức)
Bia “Ngự kiến Thiên Mụ Tự” của chúa Nguyễn Phúc Chu
Video
Di tích và cổ vật
NHỊ THẬP TỨ HIẾU
Nhị thập tứ hiếu (24 chuyện hiếu hạnh) là tác phẩm văn học thuộc đời nhà Nguyên (1271-1368), Trung Quốc, của soạn giả Quách Cự Nghiệp (1277-1367), kể về những tấm gương hiếu thảo đối với cha mẹ. Khi lưu truyền vào Việt Nam, nửa đầu thế kỷ XIX, Nhị thập tứ hiếu được Lý Văn Phức (1785-1849), tự là Lân Chi - tác gia Hán Nôm tiêu biểu và là một danh thần triều Nguyễn, đã diễn ra quốc âm theo thể thơ song thất lục bát, để dễ truyền bá trong dân gian về những tấm gương hiếu nghĩa với cha mẹ. Từ ý nghĩa giáo dục của những câu chuyện hiếu hạnh trong Nhị thập tứ hiếu, năm 1885, khi xây lăng phụ thân - Kiên Thái Vương, vua Đồng Khánh đã cho khảm sành sứ, đắp nổi 24 bức tranh mô tả 24 điển tích trong Nhị thập tứ hiếu lên các ô hộc lớn của 02 bi đình lăng với ước vọng truyền bá đời sau về ý nghĩa của chữ HIẾU trong đạo làm con đối với cha mẹ, đồng thời hướng con người đến các giá trị chân - thiện - mỹ trong cuộc sống.
Súng lệnh.
Ngày đông nói chuyện lồng ấp.
Trấn phong bằng đá quý và những lời răn dạy đầy ý nghĩa của hoàng đế Minh Mạng gởi đến người đời sau.
Lăng hoàng đế Gia Long
Lăng hoàng đế Tự Đức.
Hoàng đế Tự Đức tên thật là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, sinh năm 1829 là con trai thứ hai của hoàng đế Thiệu Trị. Ngay từ thuở nhỏ Hồng Nhậm được mẹ dạy bảo nghiêm khắc từ cách đi đứng, đối ứng đều hợp với nghi thức cung đình. Chính điều đó cộng với tư chất thông minh ham học hỏi rèn luyện bản thân nên được vua cha rất mực yêu thương tin tưởng. Năm 1848 Hồng Nhậm lên ngôi hoàng đế theo di chiếu của vua cha, lấy niên hiệu là Tự Đức - vị hoàng đế thứ 4 Triều Nguyễn và là vị hoàng đế có thời gian trị vì lâu nhất trong số 13 vị, 36 năm (1848-1883).
Tin tức - sự kiện
KHAI MẠC TRIỂN LÃM “HÀNH TRÌNH 100 NĂM (24/8/1923 - 24/8/2023) TỪ MUSÉE KHAI DINH ĐẾN BẢO TÀNG CỔ VẬT CUNG ĐÌNH HUẾ”
CHUỖI SỰ KIỆN KỶ NIỆM NGÀY MẤT CỦA VUA HÀM NGHI TẠI TRUNG TÂM BẢO TỒN DI TÍCH CỐ ĐÔ HUẾ
KHAI MẠC KHÔNG GIAN TRƯNG BÀY “VUA HÀM NGHI, CUỘC ĐỜI VÀ NGHỆ THUẬT”
Tổng giám đốc UNESCO Audrey Azoulay thăm Quần thể Di tích Cố đô Huế
Hành trình Di sản Huế tại Pháp (phần 4)
Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế
Bộ tranh "Nhị thập tứ hiếu" ở lăng Kiên Thái Vương