XÁC TÍN CÀNH VÀNG LÁ NGỌC QUA MỘT BÀI THƠ
Nguyễn Phước Hải Trung[1]
Quan tâm đến một loại hiện vật được gọi là “cành vàng lá ngọc”, trong một cuộc trò chuyện với TS. Nguyễn Đình Chiến[2], tôi được anh cho biết tại kho của bảo tàng này còn lưu giữ hiện vật cành vàng lá ngọc với thân và cành cây bằng vàng ròng, trên có khắc chữ Hán ghi trọng lượng và tuổi vàng. Năm 2019, vì là đồng nghiệp, tôi được TS. Nguyễn Văn Cường [3] mời vào tham quan kho "bảo mật" của Bảo tàng Lịch sử Quốc gia. Tôi đã mục sở thị hiện vật cành vàng lá ngọc dạng này. Sau nhiều phen lưu chuyển, tất cả các lá ngọc, hoa ngọc đều bị bóc khỏi thân cành, nên chỉ có thể hình dung từ thân cành ấy để có thể suy luận kiểu dáng của nó mà thôi. Thú thực, nó không mấy đẹp. Vì rằng gò từ vàng lá nên cành vàng lá ngọc thiếu hẳn phần hồn cốt tự nhiên. Có lẽ, vì khó tạo hình hình dáng tự nhiên của cây mai từ chất liệu vàng lá qua kỹ thuật cuộn ống và gò dũa, nên cành vàng lá ngọc bằng chất liệu đúng như tên gọi được chế tác không nhiều. Bởi vậy, chỉ thấy ở kho kho "bảo mật" có 1 hiện vật loại này. Còn cành vàng lá ngọc ở Bảo tàng Cổ vật Cung đình Huế (Bảo tàng CVCĐ Huế) thì ngược lại, được chế tác từ gỗ, kết hợp kỹ thuật sơn mài, điêu khắc đá nên hồn cốt ấy vẫn sinh động, hài hòa. Trên thực tế, dư luận xã hội trước đây rất quan tâm đến sự thực của loại hình cổ vật này ở Huế, nhưng vẫn chưa có được một cách đánh giá và nhận thức thật sự đầy đủ. Do đó, bài viết này xin đề cập về cành vàng lá ngọc từ một thi liệu nhưng rất có ý nghĩa về tính xác thực về cành vàng lá ngọc ở Huế cũng như xác định thời điểm mà nó được chế tác. Trước hết thử tìm hiểu qua về sưu tập cổ vật này.
1. Cành vàng lá ngọc ở Bảo tàng CVCĐ Huế và các khu lăng vua Nguyễn Hiện ở Bảo tàng CVCĐ Huế trưng bày 04 hiện vật cành vàng lá ngọc có thân và cành cây bằng gỗ, thếp vàng, lá ngọc, gắn trong chậu pháp lam. Trong đó có 02 chậu lan, 01 chậu mai trắng, 01 chậu mai đỏ, 01 chậu lựu. 02 chậu hoa lan có hình thức đồng dạng, thân bằng gỗ thếp vàng, hoa bằng đá thạch anh màu tím nhạt, lá bằng đá màu xanh nhạt, có nhụy là các hạt nhỏ màu vàng gắn vào nhau bằng các sợi kim loại. Toàn bộ được đặt trong chậu kim loại màu vàng, hình chữ nhật, vát 4 góc, thành chậu chạm nổi các chi tiết hoa lá, có 4 chân quì. Hiện vật có chiều cao ~ 32cm, rộng ~ 13cm, dài ~ 20cm. 01 chậu đào lựu, thân bằng gỗ thếp vàng, hoa đỏ, lá màu xanh nhạt. Xung quanh “gốc” đào có các loài lựu, trúc, nấm linh chi và cũng có 2 giả sơn màu xanh phối xung quanh. Toàn bộ được đặt trong chậu bằng pháp lam, hình chữ nhật vát 4 góc, trang trí hoa lá dơi, chữ thọ bằng men ngũ sắc, chậu có 4 chân hình kỷ. Hiện vật có chiều cao ~ 42cm, rộng ~ 22cm, dài ~ 32,5cm. 01 chậu mai, thân bằng gỗ thếp vàng, hoa bằng đá trắng, lá màu xanh nhạt. Xung quanh “gốc” mai có các loài lan, cúc, trúc bằng đá để làm nên motif về tứ quý mai - lan - cúc - trúc, nhưng chủ thể thẩm mỹ vẫn là cây mai. Mai, lan, trúc, cúc là một biểu tượng quen thuộc của thẩm mỹ phương Đông. Mai (họ mơ, đào) nở vào mùa đông và xuân, chịu đựng lạnh lẽo. Lan kiều diễm mảnh mai, hương thơm thâm trầm. Trúc ngay thẳng, tiết tháo. Cúc trải sương giá mà chẳng héo hon, có ý chí thách đố thiên nhiên. Bởi vậy, người xưa lấy đó làm biểu tượng, đặt tên cho bốn loại này là Tứ quân tử. Ngoài ra, còn có 2 giả sơn nhỏ phối bên cạnh. Toàn bộ được đặt trong chậu bằng pháp lam, hình chữ nhật vát 4 góc, trang trí hoa lá dơi, chữ thọ bằng men ngũ sắc, chậu có 4 chân hình kỷ. Hiện vật có chiều cao ~ 55cm, rộng ~ 21,5cm, dài ~ 32,5cm. Hiện vật mô tả cây mai trắng này là hoàn chỉnh và đẹp nhất trong hệ thống cành vàng lá ngọc hiện đang lưu giữ ở Huế. Ở lăng Tự Đức, tại nội thất điện Hòa Khiêm từ xưa đến nay có trưng bày 08 chậu cành vàng lá ngọc với nhiều kiểu dáng khác nhau, miêu tả các loài như cúc, đào, mai, lựu...Tuy nhiên, các chậu này đều bị hư hỏng nặng, bị biến dạng nhiều, các phần hoa, lá trên cành vàng đã bị rụng và mất rất nhiều. Các chậu đặt cành vàng đều bằng thủy tinh. Ở lăng Thiệu Trị, hiện còn và chuyển về bảo quản tại Bảo tàng CVCĐ Huế 10 chậu cành vàng lá ngọc. Diễn biến về thực trạng cũng tương tự như các chậu ở lăng Tự Đức, tuy nhiên, tất cả 10 chậu ở lăng Thiệu Trị đều được làm bằng pháp lam, rất tinh xảo. Các chậu cành vàng lá ngọc ở lăng Thiệu Trị có quy thức đồng dạng với 01 chậu cành vàng lá ngọc ở Bảo tàng CVCĐ Huế. Như vậy, đối với loại hình hiện vật này tại Huế dù mức độ nguyên vẹn, tính thẩm mỹ đều rất khác nhau nhưng hiện nay vẫn còn tồn tại với 21 chậu cành vàng lá ngọc (có thân và cành sơn thếp).
2. Cành vàng lá ngọc qua bài thơ của vua Minh Mạng Một thực tế đã từng diễn ra vào nhiều năm trước đây là có dư luận “băn khoăn” về loại cành vàng lá ngọc có thân và cành bằng gỗ, thếp vàng, đã từng có người đã từng đặt câu hỏi với nhà quản lý về tính chân thực của nó. Trong sử sách, tuy không cụ thể, nhưng ít nhiều cũng đã có ghi nhận về sự có mặt của loại hình cành vàng lá ngọc kiểu này. Năm 1837, gặp dịp Đại khánh, vua cùng các hoàng tử công, hoàng tử, hoàng tử thân công, văn võ bách quan đến cung Từ Thọ dâng lễ phẩm chúc mừng, trong đó có: “10 chi nhân sâm thượng phẩm chính bắc và 1 con nhân sâm Tây dương rất lớn có chữ ‘Thánh thọ diên linh’, 1 cái gậy như ý bằng ngọc trắng có chữ ‘Kiên trinh vĩnh cửu, cát tường Phước thọ’ (…) ít đôi chậu cảnh cành vàng lá ngọc; 1 cái chậu bạc trổ hoa, khảm hạt ngũ sắc thành chữ ‘Thiên hạ thái bình’; 1 đôi bình hoa to bằng đồ sứ nước Tây vẽ toàn hoa vàng và 100 bộ áo gấm, đoạn, sa lĩnh các màu” [4]. Gần đây nhất, khi tiến hành dịch nghĩa, chú thích cho 191 bài thơ trên điện Thái Hòa để làm ngữ liệu nghiên cứu về ngôn ngữ, tôi có dịp phát hiện thêm một cứ liệu rất đáng tin cậy để bổ sung cho thực tế trên. Đó một bài thơ bằng chữ Hán được viết trên nền pháp lam ngay ở mặt trước, bên dưới một trong hai con rồng của motif lưỡng long triều nhật tại mái trước ngoại thất điện Thái Hòa. Bài thơ được viết theo lối chữ khải, màu vàng trên nền pháp lam xanh đen đã bị phong hóa, bài thơ như sau:
綠葉久無衰 Lục diệp cửu vô suy,
白花燦四時 Bạch hoa xán tứ thì.
芳叢懸赤果 Phương tùng huyền xích quả,
黑樹掛金衣 Hắc thụ quải kim y.
Nghĩa là: Lá xanh mãi không héo/ Hoa trắng rực bốn mùa/ Khóm cây thơm lơ lửng quả đỏ/ Thân cây đen lại khoác áo vàng.
Sở dĩ tôi cho rằng đây là cứ liệu đáng tin cậy vì các lý do sau: - Thứ nhất, bài thơ được viết trên nền pháp lam, một loại hình chất liệu độc đáo, vốn đã thất truyền chỉ mới được nghiên cứu và phục hồi trong khoảng hai mươi năm lại đây. Từ năm 1960-1992, điện Thái Hòa đã trải qua nhiều lần trùng tu, nhưng chắc chắn là không có cơ sở để “trùng tu, phục hồi” các tấm pháp lam trong giai đoạn này. Thơ được viết trên các tấm pháp lam, đã được đánh dấu định vị trong quá trình trùng tu dù cố tình làm sai lệch cũng không thể, vì tính chất bố cục theo motif nhất thi nhất họa và kích thước của các tấm pháp lam đều có những số đo xác định, chỉ có thể phân bố đủ trên một diện tích đã xác định. Do vậy, nó bộc lộ "tư cách" của một loại tài liệu gốc. - Thứ hai, bài thơ cũng được in trong Ngự chế thi sơ tập (quyển 5, tờ 7b) của vua Minh Mạng. Căn cứ vào nội dung bài thơ của vua Minh Mạng ở trên thì đối tượng miêu tả trong bài thơ này chính là hiện vật cành vàng lá ngọc cây mai trắng được trưng bày ở Bảo tàng CVCĐ Huế. Và vì bài thơ do vua Minh Mạng sáng tác nên có thể định vị được niên đại của nó là khoảng thời Minh Mạng. - Thứ ba, bài thơ được đặt trong một tổng thể với các bài có tính chất vịnh vật. Bên cạnh cành vàng lá ngọc, có một số bài thơ vịnh hoặc đề cập đến các loại đồ dùng trong cung như bình hoa, cái quạt, cái lồng ấp, tấm rèm, cây bút, mũ miện, cái sênh tiền, lá cờ v.v. Hơn nữa, người xưa thường miêu tả các sự vật, hiện tượng với cái nhìn “trực quan”, thấy và miêu tả sự vật qua đó gửi gắm tình cảm. Do vậy, sự miêu tả mang tính định danh của vật nói đến được xem như là một yêu cầu. - Thứ tư, câu cuối đã phản ánh một độ “chính xác” có tính định danh sự vật rất cao: Thân cây đen lại khoác áo vàng (黑 樹 掛 金 衣: Hắc thụ quải kim y). Câu thơ lột tả được “bản chất kỹ thuật” của quá trình sơn thếp cành vàng. Theo công nghệ sơn thếp truyền thống, sau khi cốt của vật (ở đây là thân và cành) đã hoàn tất, người ta dùng tạp chất gồm sơn ta trộn với đất phù sa để “hom” và “bó” lên, rồi mài đi, tùy theo yêu cầu mà dao động từ 5 đến 7 lớp “hom bó” và mài đi như thế. Sau lớp mài cuối cùng, lại dùng sơn ta phết lên, đợi ráo thì thếp vàng quỳ. Đất phù sa trộn với sơn ta sẽ cho một tạp chất có màu đen, càng để lâu càng đen, và “thân cây đen lại khoác áo vàng” cũng là hệ quả của quy trình kỹ thuật này. Việc có thêm một loại tài liệu đáng quan tâm như thế đã góp phần làm rõ thêm về thực tế của các loại cành vàng lá ngọc đang được bảo quản, trưng bày ở các di tích Huế và Bảo tàng CVCĐ Huế.
3. Một vài điều khác về "cành vàng lá ngọc" Từ tháng 6. 2004 và sau này, các phương tiện thông tin đại chúng có thông tin, giới thiệu nghệ nhân Lê Văn Kinh (chủ hiệu thêu Đức Thành, ở 82 Phan Đăng Lưu, Huế) có giữ một cành vàng lá ngọc thân cây bằng gỗ, thếp vàng, dáng mô phỏng cây mai với chiều cao hơn 40cm gồm hơn 20 cành vàng, hơn 10 lá ngọc được kết nối xuyên qua thân hoặc treo lên cành bằng những sợi chỉ vàng. Tất cả đặt trong chiếc chậu cao hơn 50cm. Cứ như thông tin thì đây là một bảo vật “của Tham tri bộ lễ Nguyễn Văn Giáo - ông ngoại của ông Lê Văn Kinh, hiệu Chí Thành, một vị quan triều Nguyễn - được vua Khải Định ban tặng”. Đối chiếu với tất cả các loại cành vàng lá ngọc đồng dạng (thân gỗ, sơn thếp; lá và hoa bằng ngọc, có đặt trong chậu) hiện lưu giữ, bảo quản và trưng bày tại Bảo tàng CVCĐ Huế và một số lăng tẩm của các vua Nguyễn thì hoàn toàn không có loại cành vàng lá ngọc có “phong cách, kiểu dáng” như món đồ mà công Lê Văn Kinh đã công bố. Xem xét về mô-tip, đặc điểm tạo hình, màu sơn, món cành vàng lá ngọc của ông Lê Văn Kinh hoàn toàn không phù hợp với nhóm cành vàng lá ngọc có xuất xứ từ cung đình. Hơn nữa, các loại cành vàng lá ngọc có xuất xứ từ cung đình luôn được mô tả gắn với một loài cây có trong thực tế, nghĩa là nhìn vào, người xem có thể hình dung để nhận thức đó là cây gì (mai, lan, cúc, trúc v.v.). Đối với hiện vật cành vàng lá ngọc của ông Kinh thì rất khó để hình dung. Và do vậy, người viết bài này hết sức băn khoăn với thực tế cho rằng đó là món quà của vua Khải Định ban tặng. Các thông tin đề cập trong việc giới thiệu về cổ vật của ông Lê Văn Kinh đều nhất trí cho rằng đây là một cổ vật quý hiếm, vì “theo các nhà chuyên môn, tác phẩm Cành vàng lá ngọc tại nhà nghệ nhân Kinh là tác phẩm thứ ba đang có mặt ở Huế”. Thiết tưởng, với những điều mà chúng tôi vừa trình bày về 22 chậu cành vàng lá ngọc ở Bảo tàng và các lăng tẩm tại Huế đã nói lên đầy đủ mà không cần phân tích gì thêm. Thực tế được trình bày đã cho thấy tất cả những “câu chuyện” liên quan đến một loại hình cổ vật có ý nghĩa. Cổ vật “kim chi ngọc diệp” bằng vàng thật đã không còn ở Huế [5], và nhiều người chưa có cơ hội để “mục sở thị”. Do vậy, mà ngày nay ở cố đô, chúng ta chỉ có cơ hội để biết và cùng nhận thức về một loại cành vàng lá ngọc có niên đại muộn của hệ thống các cổ vật “kim chi ngọc diệp” vốn tồn tại với sinh hoạt của Hoàng cung Huế xưa.
N.P.H.T.
[1] TS, Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế.
[2] Nguyên là Phó Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
[3] Nguyên là Giám đốc Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
[4] Quốc sử quán triều Nguyễn,
Đại Nam thực lục, Viện Sử học dịch, tập 5, tái bản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007, tr.157.
[5] Số cổ vật bằng chất liệu quý như vàng, ngọc, bạc đều được “tiếp quản” ra Hà Nội từ năm 1945. Hiện lưu giữ tại Bảo tàng Lịch sử Việt Nam (được biết hiện nay còn khoảng hơn 2.500 món).